Ampli
đèn vận hành chủ yếu dựa vào nguyên lý hoạt động của bóng đèn, cụ thể
là sự khuếch đại dòng tín hiệu khi qua linh kiện này.
Ampli đèn có những đặc tính âm thanh quý. Ảnh: madisound.
Được
sáng chế năm 1906 bởi Lee De Forest, ampli đèn là tiền thân của ampli
bán dẫn thông dụng ngày nay. Vào thời gian này, ampli đèn liên tục được
phát triển và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực, trong đó có thể kể đến như
truyền tải tín hiệu điện thoại, nghe nhạc, vô tuyến truyền hình... Tuy
nhiên, đến những năm 70 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển nhanh
chóng của bán dẫn silicon là những bước tụt dốc của ngành công nghiệp
chế tạo bóng đèn nói chung và ampli đèn nói riêng. Ampli bán dẫn có lợi
thế hơn hẳn về công suất, nhỏ gọn và tiết kiệm hơn, bởi vậy là sự lựa
chọn số một của rất nhiều người sử dụng thời bấy giờ.
Tưởng chừng đã rơi vào quên
lãng, tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, ampli đèn đang trở lại thị
trường nghe nhạc hi-fi bởi một số nhà sản xuất thiết bị âm thanh cao
cấp và cộng đồng người chơi thích tìm tòi, đam mê vẻ đẹp âm thanh đặc
trưng từ ampli đèn.
Ampli đèn vận hành chủ yếu dựa
vào nguyên lý hoạt động của bóng đèn, cụ thể là sự khuếch đại dòng tín
hiệu khi qua linh kiện này. Tương tự với bóng bán dẫn, bóng đèn chỉ cho
dòng electron đi qua theo một chiều nhất định. Điểm khác nhau là bóng
đèn sử dụng kênh electron dài vài cm, đòi hỏi nhiều năng lượng, trong
khi bóng bán dẫn đưa các electron qua một kênh có độ dài rất nhỏ, cần ít
năng lượng hơn.
Giản đồ bóng đèn cấu tạo bóng đèn sử dụng trong ampli đèn.
Về
cấu tạo, bóng sử dụng trong ampli đèn gồm ba thành phần chính: catốt,
anốt, và cực G được đặt trong một lớp vỏ thủy tinh đã bơm không khí ra
ngoài để đạt được trạng thái gần chân không. Việc này giúp các bộ phận
bên trong không bị oxi-hóa và tránh hiện tượng cản trở dòng electron
dịch chuyển từ catốt đến anốt, gây nhiễu, thất thoát tín hiệu âm thanh.
Catốt là nơi electron được bắn
ra, năng lực phát xạ điện tử của bộ phận này được cường hóa bằng lớp phủ
bề mặt bằng nhiều loại hợp chất khác nhau. Anốt có nhiệm vụ thu nhận
các electron tự do nên có điện thế dương. Độ lớn của dòng điện được
truyền qua bóng đèn phụ thuộc vào độ chênh lệch điện áp catốt-anốt, lớp
phủ bề mặt catốt, diện tích bề mặt catốt-anốt. Khi hai yếu tố sau đã cố
định bởi thiết kế bóng đèn, độ lớn dòng chỉ còn phụ thuộc vào độ lệch áp
giữa catốt và anốt.
Cực G, hay còn gọi là cực điều
khiển có dạng lưới hoặc lò xo nằm giữa hai cực catốt và anốt. Cực này có
điện áp âm so với catốt nên các điện tử không bị hút vào đây.
Catốt nóng sáng khi ampli đèn hoạt động. Ảnh: Treedifiy.
Khi
ampli đèn hoạt động, catốt được đốt nóng đến một nhiệt độ nhất định,
khiến cho động năng của electron thắng lực liên kết kim loại, phát xạ ra
khỏi bề mặt của catốt. Nhiệt độ này vừa không quá bé để cung cấp đủ
động năng cho electron, vừa không quá lớn để electron bay quá mạnh, đập
vào anốt và đàn hồi trở lại, hoặc bay lệch quỹ đạo vì động năng điện tử
lớn hơn cả lực hút anốt. Điện năng ampli đèn sử dụng chủ yếu phục vụ cho
quá trình cấp nhiệt cho catốt. Hiệu suất chuyển đổi điện năng sang
nhiệt năng không lớn, bởi vậy có khá nhiều năng lượng lãng phí, thất
thoát.
Cơ chế dịch chuyển electron kể
trên khiến cho dòng điện qua bóng đèn khá nhỏ, đòi hỏi loa cần có độ
nhạy cao, những sự thay đổi rất nhỏ cũng có thể cảm nhận được. Thực tế
vẫn có thể kết hợp hệ thống nhiều bóng đèn để tạo ra dòng lớn hơn nhưng
điều khiển sao cho đồng pha giữa các bóng và yếu tố chi phí là những rào
cản đáng kể.
Cực G được đặt vào một điện áp
âm, không kín mà có dạng lò xo hoặc dạng lưới nên ít cản trở dòng
electron dịch chuyển. Sở dĩ gọi là cực điều khiển bởi áp đặt trên cực G
ảnh hưởng đến sự chênh lệch điện áp giữa catốt và anốt, vì vậy độ lớn
dòng điện chạy từ catốt đến anốt lớn hay nhỏ phụ thuộc vào điện áp của
cực G âm ít hay âm nhiều so với catốt.
Ampli sử dụng hai loại bóng đèn với chức năng khác nhau. Ảnh: Streed.
Các
bóng đèn trong ampli được chia làm hai loại, tương ứng với hai giai
đoạn khác nhau: tiền khuếch đại âm tần và khuếch đại âm tần.
Loại thứ nhất có tên bóng tiền
khuếch, hay bóng tín hiệu, thuộc giai đoạn tiền khuếch đại âm tần. Do
tín hiệu đến ampli đèn thường rất nhỏ, vì vậy giai đoạn này có tác dụng
tăng dòng đủ lớn để tiếp tục vào giai đoạn sau. Yêu cầu của tiền khuếch
đại là phải xử lý thật chính xác, tạp âm rất nhỏ bởi tạp âm này sẽ được
gia tăng lên rất lớn cùng tín hiệu âm thanh. Do vậy, các bóng tín hiệu
thường được bọc thêm bởi một lớp vật liệu chống nhiễu bên ngoài lớp vỏ
thủy tinh.
Loại thứ hai có tên bóng công
suất, thuộc giai đoạn khuếch đại âm tần. Nếu nói bóng đèn là linh hồn
của ampli đèn thì bóng công suất là trái tim của linh hồn đó. Bóng công
suất là một trong những bộ phận có vai trò quyết định đến chất lượng tín
hiệu âm thanh qua ampli. Bộ phận này được sử dụng để biến dòng tín hiệu
âm thanh từ tiền khuếch đại đủ mạnh để cho ra tải. Vì vậy, chất lượng
bóng đèn công suất rất được các nhà sản xuất và người chơi ampli đèn
quan tâm. Đây cũng là linh kiện nhanh phải thay thế trong quá trình sử
dụng.
Một loại biến áp thông dụng. Ảnh: Audo.
Bóng
công suất dù đã được chế tạo đặc biệt để tạo ra dòng lớn nhưng rất ít
trong số đó có khả năng cung cấp dòng đủ mạnh cỡ ampe. Vì vậy, trong
giai đoạn khuếch đại âm tần, tín hiệu sau đó được đưa vào biến áp xuất
âm để lấy áp và dòng phù hợp cho ra loa.
Một ví dụ cụ thể, loa cần cho
ra 4W, có trở kháng 8 ohm (mức trở kháng thích hợp với loa dùng ampli
đèn), dòng qua loa phải đạt 0,5A và điện áp trên loa phải là 4V. Trong
trường hợp này, biến áp xuất âm phải có áp cuộn thứ cấp đặt vào loa đạt
4V, giả sử cuộn sơ cấp biến đổi điện áp 40V nên hệ số giảm áp là 10. Vì
vậy, hệ số tăng dòng là 10, dòng thứ cấp là 0,5A nên dòng sơ cấp là
0,05A hay 50mA, ở mức mà đèn công suất có thể cho ra được. Việc này gọi
là phối hợp trở kháng để lấy dòng và áp phù hợp cho ra loa.