Nhạc kịch tại gia 

Với trường hợp của kỳ khảo sát này, người mê nhạc nhiệt thành, cầu toàn và vĩ đại như Richard Wagner cũng có thể hài lòng khi chứng kiến âm nhạc của mình đã lan toả, len vào các hẻm nhỏ…

Nguyễn Như Dũng

LỜI THÁCH ĐỐ

Bằng kinh nghiệm và óc phán đoán, nhà cung cấp gửi cho e++ những trang thiết bị mà việc chọn đội hình để test đã hàm chứa chất xám, công sức… Câu đố kỳ trải nghiệm này như sau: Loa Chario Constellation Delphinus + Ampli tích hợp Prima Luna Prologue Premium + Phono Preamplifier Rogue Audio Stealth + Turntable Music Hall mmf-5.1 (hoặc CD Player Music Hall cd35.2) + phụ kiện của Furutech + Chống rung Viprapod… sẽ mang lại cho chúng ta cảm xúc âm nhạc nào?

 

Box: Mỗi bộ dàn một số phận tái tạo âm nhạc. Chúng có thể hợp lâu mà cũng có thể tan nhanh. Song, dù chỉ một phút thể hiện huy hoàng, bộ dàn có tính cách mạnh vẫn không thể nào bị lãng quên …

 

Chario Constellation Delphinus: Giá mạng 1.389 euro (~33,5 triệu đồng)/cặp. 

Là một trong những nhà sản xuất loa hàng đầu thế giới, Chario Loudspeakers là công ty lâu đời và lớn nhất ở Italia chuyên nghiên cứu và chế tạo loa nghe nhạc chất lượng cao. Chario thiết kế loa dựa trên các nghiên cứu về đường truyền âm và khả năng thẩm âm cuả đôi tai. Ngoài vẻ đẹp loa, âm thanh loa Chario độc đáo vì thoải mái, nghe lâu không mệt. Dù là loa Ý, Chario có giá bán khá rẻ nhờ sở hữu nhà máy đa năng tại Italia tự chế tạo cho mình củ loa, bộ phân tần và các thùng loa ghép gỗ tuyệt mỹ.

Nằm trong sê-ri Constellation (các vì sao sáng), Chario Delphinus (Ngôi sao Bắc Đẩu) là loa đặt trên kệ, có kích thước khiêm tốn nhưng đảm nhiệm xuất sắc vai trò thể hiện âm thanh nghe nhạc thuần tuý cũng như rạp hát gia đình. Delphinus là thành quả cuả nhiều năm tìm tòi cuả các kỹ sư âm thanh Chario nên đã thành công gần như tức thời do sự kết hợp hiệu suất âm thanh cao với giá bán so với mọi loa kê kệ (Bookself) hi-end ở ngang hay hơn tầm giá.

 

Thông số kỹ thuật Delpinus:

Loa thông hơi NRS sáng chế bản quyền bass hướng sàn - 2 đường tiếng

1 Tweeter 38mm dạng vòm T38 lớn nhất thế giới đặt trong khuôn hướng âm dạng loa kèn

1 Woofer 170 mm giấy và cao su tổng hợp

Độ nhạy 90dB trong phòng

Tần số thấp 45Hz ở -3dB

Tần số cắt ở 1.500 Hz

Trở kháng 4Ohm

Ampli đề nghị: 50W - 140W/4Ω

Kích thước cao x rộng x sâu: 410 x 230 x 370mm

Trọng lượng 13kg/cái

Vật liệu chế tạo thùng: gỗ sồi hoặc anh đào cứng và HDF

Chario khuyến cáo đặt Delphinus bẻ góc về phía vị trí người nghe để đạt kết quả tối ưu

Tuỳ chọn chân loa gỗ của Chario 400 USD/cặp - Kích thước 630 x 300 x 350 mm.

 

Prima Luna ProLogue Premium: Giá tham khảo 2.500 USD (~52 triệu đồng) 

Bằng cách kết hợp các yếu tố tốt nhất của Primaluna ProLogue Two (e++ số tháng 6/2011) với các tính năng tốt nhất cuả dòng DiaLogue cao cấp, sê-ri Prologue Premium của Prima Luna đang là hiện tượng sốt dẻo vì nhiều lý do:

1- Mạch AAB ( Auto Adaptive Bias ) chơi được nhiều đèn, thay đèn mà không cần chỉnh bias

2- Thêm công tắc chọn lựa tối ưu cho đèn EL34 hoặc KT88

3- Cải tiến phần pream , dùng tất cả một loại đèn 12Au7 (4 cái) để đạt độ mịn và ấm hơn

4- Thêm đèn Led ở mỗi chân bóng công suất, thông báo ngay khi đèn yếu và cần thay thế

5- Thêm an toàn bằng mạch bảo vệ transfo xuất âm, giúp ampli tự động tắt khi quá tải

6- Thêm điều khiển từ xa, remote thép xinh, sang có đeo nhẫn cao su kỹ thuật chống trầy trượt

7- Láp ráp bằng tay hàn điểm nối điểm

8- Đế đèn bằng gốm, nắp che đèn tiện dụng, tụ Nichicon, cầu loa WBT, jack cắm RCA mạ vàng,

biến áp hình xuyến mạnh mẽ….

Tất cả những thứ thượng hạng này được “đóng gói” trong vỏ máy thép dầy, sơn 6 lớp có độ bóng cao và ít bị trầy xước…. Với dòng Prologue Premium, cựu kỹ sư trưởng Goldmund Marcel Croese lần nữa chứng tỏ tài cao vì “làm tốt hơn một sản phẩm đã rất tốt” (khó hơn làm một cái mới).

 

Thông số kỹ thuật Prologue Premium:

Đầu ra: 35W x 2 với bóng EL34; 40W x 2 với bóng KT88

Tần số đáp ứng: 20Hz - 30kHz +/- 0,5dB

Độ méo tổng quát THD: Ít hơn 1% ở công suất tối đa

Tỷ số tín hiệu và tiếng ồn - độ trong rõ S/N: 89 dB

Độ nhạy đầu vào: 300mV

Công suất tiêu thụ: 300W

Kích thước rộng x cao x sâu: 37cm x 20cm x 40cm

Trọng lượng: 21kg

Đầu vào: 4 cặp RCA, 1 đôi Home Theater để đánh loa Front trong dàn xem phim

Đầu ra loa: 2 trở kháng 4Ohm và 8Ohm tuỳ chọn

Bóng đèn sử dụng: 12AU7 (4); EL34 (4)  hoặc KT88 (4).

 

Rogue Audio Stealth: Giá mạng 895 USD (~18,65 triệu đồng). 

Preamplifier phono của Rogue Audio Stealth thiết kế, lắp ráp 100% tại Mỹ, size lớn, mặt nhôm cào xớ, cung cấp hiệu suất cao bởi mạch topo, cân bằng chính xác theo chuẩn của RIAA (Recording Industry Association of America – Hiệp hội Công nghiệp Thu thanh Mỹ)… nên có lẽ Rogue Audio chơi chữ khi đặt tên model này là Stealth là “giá hàng chôm”, “giá không cần suy nghĩ”. Máy hoạt động với cả 2 loại kim MM và MC.

Đặc điểm kỹ thuật:

- Sử dụng kim MM và MC

- Mạch ampli Topo hiệu quả cao nhất

- Cân bằng âm thanh theo chuẩn RIAA

- Biến áp cấp nguồn và điều hòa điện thế cao cấp

- Bộ chỉnh, chọn trị số nằm trong máy  100, 300, 1.000 và 47k Ohm

- Bộ chỉnh, chọn trị số tải điện dung 150 Picofared hoặc 0


- Bộ chỉnh độ lợi phát ra: 40dB, 50dB, 60dB, 65dB


- Jack RCA mạ vàng


- Bản mạch để gắn linh kiện bằng đồng chống nhiễu âm nặng 56,7g


- Dây chạy trong máy là loại quý nhất teflon/silver


- Bảo hành 3 năm.
 


Music Hall mmf-5.1
: Giá tham khảo 890 USD (~18,5 triệu đồng)

Mâm quay đĩa nhựa (Phono Turntable) Music Hall được thiết kế tại Áo, sản xuất tại một xưởng cơ khí đặc biệt chuyên làm mâm đĩa nhựa 50 năm kinh nghiệm. Music Hall có một sáng chế bản quyền độc đáo, tưởng là đơn giản nhưng hiệu quả: Đế chiụ lực kép kiểu bánh kẹp 2 hay 3 lớp nhằm phân lập các thành phần, chống nhiễu âm cơ học khiến mâm đĩa quay nhựa Music Hall giá thấp - nhạc tính rất cao. 

Các thành phần quan trọng như thớt đặt đĩa, tay quay đĩa thông minh, trục thép, bọt nước thăng bằng… được gắn vào đế ở phía trên. Còn động cơ, dây truyền, công tắc dây điện và chân… gắn riêng trên đế thứ nhì phía dưới. Máy mmf-5.1 được bán trọn bộ với kim MM Goldring 2.200, kiểu dáng sang trọng, vỏ sơn mài piano đen bóng. Trên mâm đĩa có tấm thảm mềm và tạ chạn đĩa (cục chặn) có kẹp ép sát đĩa vào thớt. Máy còn cung cấp dây RCA phono và nắp che bụi…

 

Đặc điểm kỹ thuật:

-   Chơi 2 tốc độ 33 và 45 vòng/phút

-   Tạy quay đĩa bằng nhôm cứng khối lượng nhẹ dập nguyên thanh

-   Dây dẫn trong máy là đồng tinh chất

-   Mô tơ phân lập khỏi trục thép

-   Kim (Cartridge) MM Goldring trị giá 250 USD với mũi kim cương cắt hình trái xoan

-   Trục bằng thép mạ teflon đảm bảo trơn tru không ồn

-   Thớt đĩa bằng nhôm Alloy để đạt độ tĩnh và độ động cao nhất

-   Chân Viscose 2 tầng chống rung

-   Dây curoa êm, chống nhiễu

-   Thùng kiên cố an toàn khi vận chuyển, nặng ~11kg.

CÂU TRẢ LỜI

Giới mê nhạc thừa nhận trong bộ dàn, loa quan trọng nhất. Loa trong tiếng Anh là speaker dịch đen là người phát ngôn, phát ngôn không hay thì chẳng thể nào nghe hay. Nhưng “phát ngôn cấp cao” (hi-end) mà không có đội hỗ trợ cấp cao chắc cũng chẳng “phát” được gì… Nên, ampli và tất cả những thứ ngược lên đến nguồn âm đều quan trọng cho sự thể hiện cuối. Trải nghiệm kỳ này của e++ cho thấy điều đó rất đúng. Trường hợp này, ampli thực sự là trái tim, linh hồn…

 Kịch bản test

 Cặp loa Delphinus tuy không lớn nhưng to hơn khá nhiều so với The One Totem Acoustic (e++ số tháng 6/2011), nhờ thế mà nó đã có thể phát huy rất tốt vai trò loa trong bộ dàn chạy nguồn phát bằng mâm đĩa than MMf 5.1. Bên cạnh đó, đầu CD Music Hall 35.2 đóng vai trò kiểm tra tính đúng đắn của việc kê loa, chạy rà và xác định kịch bản test.

 Trong quá trình xây dựng bộ dàn, chỉ là vài động tác cắm dây nhưng với “đèn”, quan trọng là không được nhầm vì ampli đèn chạy không tải là có thể “ đánh thủng” tăng phô. Và tuy chỉ là các dây dẫn nhưng dây hi-end có chiều, có công dụng riêng nên phải cắm đúng, bắt chặt để không phải cắm lại. Nhiều người cho rằng các hãng dây hay “sách vở” nhưng những chi tiết rất nhỏ như thế mà không làm đúng thì cái lớn hơn cuối cùng là nghe, dù hay vẫn không đạt. Nữa là, người thử nghiệm chính là người làm nốt phần việc trước khi sản phẩm đến tay người dùng với “thủ tục”… chạy rà, có khi lên đến hàng trăm giờ nên việc đầu tiên, e++ làm là cắm điện “nấu”các thiết bị nguyên ngày đầu, không chơi nhạc.

 Sau đó là nghe những thứ dễ xử lý cho bộ dàn (ít nhạc cụ, giọng ca) nhưng có thể với lực đủ nặng ở mức volum đủ lớn 9h – 10h. Ví dụ nghe bản Hotel California đơn giản nhưng không dễ chơi với nhiều đôi loa. Để kiểm tra mức độ thật (mộc), có thể dùng tiếng vỗ tay trong các chương trình thu thanh trực tiếp. Không ngẫu nhiên mà nhiều hãng thu thanh trực tiếp khi ghi ra đĩa thì ghi thủ tục vỗ tay thành các bản (track) riêng, không kèm vào bài nhạc chính. Chỉ cần nghe tiếng vỗ tay là biết trình độ thu thanh của hãng thế nào. Hãy để những track vỗ tay chơi lặp để rút ngắn thời gian chạy rà. Và, cuối cùng là chọn ra “bộ bài ít quân nhất” mà vẫn có thể thông qua đó kể một câu chuyện hay về quá trình nghe.

 Đúng – Sạch – Đẹp

Bộ dàn thể hiện đầy đủ, chi tiết, thuyết phục tất cả thể loại nhạc và không gian sân khấu với âm trầm sâu rộng, mạnh mẽ; trung âm mộc mạc nhưng thâm thuý, truyền cảm; âm cao – không phải bận tâm đến âm cao. Chi tiết hơn thì bass rền, rẻo, rõ, gọn; midle đầm, đậm, đặc, đẹp, tròn trịa – vuông vức (các tiếng đàn phím)…; treble mịn màng, dịu dàng, thoáng đãng. Với nhạc jazz & blues, nhạc pop & rock…, là các loại nhạc mới, đơn giản ít nhạc cụ và ít giọng ca (điện tử hay đàn mộc)  thì rõ ngay là “không thành vấn đề” trên bộ dàn này mà là một sự tưởng thưởng tuyệt diệu.

 Đó là vì, ngoài thể hiện rất tốt tiếng trống - tiếng bass và tất cả các loại tiếng nhạc cụ nói chung, bộ dàn này có một thế mạnh là thể hiện xuất sắc các giọng người, nhạc cụ âm vực gần giọng người… Cũng vì thế, để cho nhanh, chúng tôi quyết định kiểm tra nó bằng một bài test rất khó: Thể hiện bộ đĩa nhựa opera “Der Ring Des Nibelungen” (Chiếc nhẫn của Nibelungen - “Chiếc nhẫn”) viết theo thần thoại Bắc Âu của Richard Wagner (1813 - 1883)!

 Richard Warner sinh thời là nhạc sĩ, nhạc trưởng, giám đốc nhà hát, nhà văn, triết gia Đức được biết đến nhiều nhất như nhà viết nhạc kịch và “Chiếc nhẫn” là bộ tứ opera nổi tiếng nhất của ông. Opera luôn là thứ cao nhất, “khó gặm” nhất ở trong đời sống âm nhạc cũng như trên audio. Gần 30 năm sáng tác bộ tứ nhạc kịch này, dĩ nhiên Wagner đều mơ ước đến một ngày được công diễn chúng. Tuy nhiên, Wagner là một nhà cách mạng vào thời của ông và ông đã đưa vào âm nhạc những cách tân rất lớn. Ví dụ, “Chiếc nhẫn” được “đệm” bằng dàn nhạc 4 quản (tương đương 4 dàn nhạc tiêu chuẩn, sử dụng 4 kèn trumpet) với 8 kèn co vốn là “thứ to quá khổ”, tất cả nhà hát đương thời không kham nổi.

Năm 1872 Vua Ludwig II mến mộ Wagner nên tài trợ cho ông đứng ra thi công Bayreuther Festspiele và mãi đến 4 năm sau, 1876 nhà hát cần có của Wagner mới được khai trương (bằng bộ tứ “Chiếc nhẫn”). Wagner có dùng thành quả của các kiến trúc sư đương thời nhưng chính ông cũng đưa vào nhà hát này nhiều cách tân: “Hố chìm” trước sân khấu để triển khai dàn nhạc giúp mọi thính giả từ các hàng ghế sắp xếp theo “ruộng bậc thang” (cũng là sáng kiến của Wagner) có thể quan sát được mọi diễn ca. Việc dàn nhạc ngồi sâu dưới thềm sân khấu khiến cho đội kèn không “lấn át” các giọng ca… Và “chiếc nhẫn” đã được công diễn hoành tráng và thành công rực rỡ trong 4 ngày 13, 14 và 16, 17/8/1876.

 Với lai lịch và tầm cỡ đó, dù là bộ “Chiếc nhẫn” do Karl Bohm chỉ huy hay là bộ “Chiếc nhẫn” do Herbert von Karajan chỉ huy vào 100 năm sau lần công diễn đầu thì muốn “tái tạo” được chúng như thật phải có bộ dàn “tối thiểu” nào đó. Bởi nhiều lẽ. Nhạc của Wagner rất khó nghe chứ chưa nói nghe là thấy ngay cái đúng, cái sạch, cái đẹp (cái hay) trong nhạc của ông.

 "Đúng – Sạch – Đẹp” là tiêu chuẩn diễn thuyết hay dành cho các nhà hùng biện thành Rome thời Đế quốc La Mã nói không micro trước hàng nghìn người nghe như một nghệ thuật. Sau này, nhạc sĩ đầu tiên được coi là vĩ đại của thế giới Johann Sebastian Bach áp dụng vào âm nhạc. Wagner tiếp thu truyền thống Đức của Bach không thoát khỏi nguyên lý đó. Tuy nhiên, quá trình sáng tạo đẩy Wagner đến những hoà âm thoạt nghe tưởng rất nghịch. Cho nên, để đến khi những người bình thường nghe được những “âm nghịch” này mà thấy hay là một quá trình rất dài hoặc phải bằng phương tiện rất xịn. Nhạc của Wagner ngoài giai điệu còn rất đề cao hoà âm nên luôn đan xen, dày đặc, kín mít, tưởng như chật ních... Nhạc của Wagner rất giàu có nhưng quán xuyến với những chủ đề, âm hình, motif… “gắn chết” với từng nhân vật, chỉ cần vài nốt tái hiện là người nghe thấy lại nhân vật ở ngay trước mắt…

 Làm nổi: Chế tạo tại đất nước đã sản sinh ra nghệ thuật nhạc kịch là Italia, cặp loa khiêm nhường “Ngôi sao Bắc Đẩu” Chario Delphinus đã giúp bộ dàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Tất cả những gì thế giới nói và viết về Wagner cùng bộ tứ opera “Chiếc nhẫn của Nibelungen” đều có thể nghe thấy rõ ở bộ dàn này.

 

TRANG THIẾT BỊ THAM GIA KHẢO SÁT:

 Phần cứng:  

Loa Chario Constellation Delphinus + chân loa - Amply đèn tích hợp Prima Luna ProLogue Premium (KT88); CD Music Hall cd35.2; Rogue Audio Stealth Phono Box; Mâm Music Hall mmf-5.1; Phụ kiện của Furutech (tìm đọc trên e++ số ra tháng 4/2011) gồm Lọc điện e-TP60; Dây nguồn G-20A-18 (Ampli); Dây nguồn G-320Ag-18 (Phono pre); Dây tín hiệu Alpha Plus (CD); Dây Phono Silver RCA Furutech; Dây loa Furutech Evolution II; Chân chống rung Viprapod.

 Phần mềm (CD và LP):

CDs:

 Pletnev live at carnegie hall (NXB Deutsche Grammophon, đĩa ghi phần biểu diễn thêm - New York tháng 11/2000, CDA-11616); Odeum Guitar Duo (Robert Wetzel & Fred Benedetti, Guitars), Concert Hall Classics, SBE Record, CDA-2456; Duo Chitarristico (Mario Fragnito & Lucio Matarazzo), NXB Ducale, CDA-5377; NatureQuest an Adventure in Nature and Music, Loon Magic (nhạc môi trường); Jheena Lodwick All My Loving…(Jazz); Maria Joao Pires plays Chopin Nocturnes (Piano Solo - Deutsche Grammophon, CD Box) v.v…

LPs:

 *Meyer Records Vol 2 (tổng hợp Blues,Jazz) Clearaudio phát hành  – LP và Brahms: Symphonie No2, Los Angeles Philharmonic Orchestra, Carlo Maria Giulini, Deutsche Gramophon – LP)

 *Triple Concerto của Beethoven do Geza Anda (1921 – 1976, Piano), Wolfgang Schneiderhan (1915 – 2002, Violin), Pierre Fournier (1906 – 1986, Violoncelle) biểu diễn cùng Berlin Radio-Symphonic Orchestra do Ferenc Fricsay chỉ huy, đĩa nhựa (LP - đã đoạt Giải thưởng cao nhất Grand Prix du Disque của Academie Charles Cros vào năm 1963 – NXB Deustche Gramophon 1962)

 * Richard Wagner: Der Ring des Nibelungen, Karl Bohm & Bayreuther Festspiele – NXB Philips 1976, Complete Edition LP Box 16 LP, Xuất bản phẩm kỷ niệm 100 năm khai trương Nhà hát Bayreuther Festspiele. Richard Wagner: Der Ring des Nibelungen, Herbert von Karajan, Berliner Philharmoniker + Chor der Deutschen Oper Berlin – Deutsche Grammophon – Complete Edition LP Box 19 LP).

 

Cung cấp thiết bị: Audio Choice, www.amthanhvang.com

111[12]1314