Magnepan MG 3.7: Loa mành huyền thoại

Cặp loa mành hoành tráng MG 3.7 cao to như hai cánh cửa mở vào gian phòng âm nhạc lộng lẫy. MG 3.7 là đích phấn đấu và cũng có thể là điểm dừng cho audiophile. 

Cho đến nay, nhiều chuyên gia vẫn đồng ý rằng mọi nỗ lực để nâng cấp loại loa thùng thông dụng chưa thể tạo ra được một âm thanh thuyết phục như loa mành vì tổng năng lượng trong phòng nghe gọi là "năng lực đáp ứng" phủ đầy phòng nghe của loa mành hầu như không đối thủ.

Loa mành MG 3.7

Loa mành Magnepan 3.7 là một đôi loa khác biệt cả về hình thức lẫn âm thanh, nó tách ra khỏi đám đông loa thùng thông thường với chiều cao 1,8m, rộng 61cm và chỉ dầy 4,1cm và chính kích thước lớn tsàn hướng đến trần nhà của loa Magnepan đã mang lại phản ứng năng lượng tuyệt vời và tái tạo âm thanh dàn nhạc cụ, ca sĩ, sân khấu giống như thật.

MG 3.7 được thiết kế 3 đường tiếng, phát âm lưỡng cực 2 mặt tạo âm trường 360 độ. MG 3.7 sử dụng ‘treble giải băng’ (ribbon driver) màng mỏng bằng 1/10 độ dày của sợi tóc; có khối lượng cực thấp, làm t nhôm lá siêu mỏng. Thanh treble ribbon dài 1,4m rộng 14cm không có cuộn dây, không có màng, không viền loa và không có thùng nên việc tái tạo âm thanh tần số cao cho phép nghe thấy những chi tiết chưa bao giờ nghe thấy ở loa thùng.


Ngoài ra, màng mid diện tích 199 inch vuông (~0,13 mét vuông) và màng bass toàn phẳng diện tích 500 inch vuông ( 0,32 mét vuông) kết hợp tạo nên âm trung/trầm “kỳ lạ” và trung thực.

Các kỹ thuật mới Quasi Ribbon vận hành rất tốt trong model MG 1.7 nay cũng được đưa vào loa MG 3.7. Giờ đây, loa MG 3.7 thừa khả năng mang lại cho thính giả ssống động và lộng lẫy của âm nhạc.

Hoà hợp và đồng nhất, hùng vĩ và ba chiều là một phần của nhiều nhận xét từ phía người nghe. Bass, trung và cao, tất cả pha trộn nhau để xuất ra thâm thanh từ một màng loa liền mạch

Thông số kỹ thuật:

3 đường tiếng với treble ribbon và mành mid, bass Quasi Ribbon

Dải tần đáp ứng: 35 Hz – 40 Khz

Độ nhạy: 86 dB 500Hz

Trở kháng: 4 Ohm

Kích thước cm: 61 x 180,3 x 4,1 (rộng x cao x sâu).

Dựng loa và phối ghép

Loa mành MG 3.7 nhìn như một cánh cửa với khung bao bằng gỗ, màng loa nhôm cực mỏng và vải bọc ngoài. Cặp loa được trải nghiệm có màu đen thanh lịch. Để dựng được loa mành theo chiều thẳng đứng, tại dưới cùng hai ‘cột’ dọc hai bên mép trái/phải của loa, nhà sản xuất thiết kế trụ đỡ để gá giá đỡ có bắt vít. Giá đỡ là 2 êke dài 45,7cm, rộng 3,7 cm, ở giữa có ống thép cao 14 cm để bắt vít vào chân cột loa. Loa đứng được một cách vững chãi như là được kê chắc chắn trên tấm đáy hình chữ nhật 48 x 45,7 cm vậy.

MG 3.7 là loại loa cần kê xếp bẻ góc chéo, xoay mặt các loa về phía người nghe, mặt loa vuông góc với đường dẫn đến người nghe. Tốt nhất là để lưng loa cách vách tường phía sau 1 mét, cách các tường bên 0,6 mét trở lên. Hai loa cũng nên để cách xa nhau 2 mét trở lên. Đây là những thông số quan trọng nhằm cung cấp cho người dùng thông tin về đòi hỏi của loa với phòng nghe.

Cùng những đầu phát được chọn gồm CDP Denon DCD 3300; Turntable Pioneer XL-1551 (kim MM Concept mới thay của Clearaudio) và Cassette Tape Deck Beocord 9000 của Bang Olufsen, chúng tôi sử dụng 3 phương án xử lý khuếch đại gồm thuần đèn Separo SE300I chạy 2 bóng 300B-98 công suất 10W RMS/bên 8Ohm; thuần bán dẫn Kenwood L0-2A công suất 250W/bên 4 Ohm (ampli cổ, xuất xưởng vào khoảng những năm 1982 – 1985 với giá đề nghị 550.000 Yên Nhật) và giải pháp lai pre đèn LS 36.5 + power bán dẫn KWA 150SE (mới tinh của ModWright). Power Ampli KWA 150SE có công suất 150Wpc 8Ohm hoặc 275Wpc 4Ohm (chế độ stereo).

Giải pháp chạy với Separo SE300I cho chất âm mềm, dịu, đều toàn dải nhưng đòi hỏi mức vặn volume âm lượng cao, phải vặn tới vị trí 2h mới thoả (vặn to hơn, tiếng nhạc kéo theo xì tạp không còn đảm bảo chất lượng). Giải pháp chạy với Kenwood L0-2A cho tiếng nhạc vững vàng, chắc chắn, đầy đặn và đường bệ, hoàn toàn không có gì để phàn nàn. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp chứng tỏ loa mành MG 3.7 không quá kén chọn giải pháp xử lý khuếch đại chứ việc tìm ra một chiếc Kenwood L0-2A khác bây giờ không còn là việc dễ dàng.

Giải pháp chạy cùng pre đèn LS 36.5 và power bán dẫn KWA 150SE thật tuyệt với tiếng nhạc no tròn, sắc xảo, chi tiết nhưng rất hoà quyện, thanh tao. Tiếng đàn piano của Glenn Gould trong The Glenn Gould Edition – Bach – Toccatas BWV 910 – 916 (Box 2 CD của Sony) vuông vức, đặc chắc như những viên súc sắc lớn… Bass của giải pháp lai đèn + bán dẫn xuống thật là sâu mà không tối. Dải trung và cao trong giải pháp lai này tự nhiên, chi tiết, thực như ở bên ngoài. Toàn bộ phần trải nghiệm phía dưới đi sâu vào giải pháp chọn sử dụng loa mành MG 3.7 với cặp xử lý khuếch đại LS 36.5 + KWA 150SE.

Âm nhạc đỉnh cao

Chúng tôi bắt đầu đêm trải nghiệm bằng một CD dễ nghe – TAS – The Absolute Sound 2009. Đây là CD tuyển chọn các bài nhạc hay trong năm 2009 của Tạp chí The Absolute Sound – TAS dành cho các audiophile dùng kiểm tra máy và người nghe nói chung để thưởng thức và giải trí. CD này có 14 bản đầy đủ thể loại nhạc nhẹ, jazz, contry, cổ điển… với nhiều chất giọng của các ca sĩ khác nhau và nhiều loại nhạc cụ dân tộc, hiện đại khác nhau. Một bộ dàn vượt qua được những đòi hỏi của CD này đã được coi là tốt, trong khi MG 3.7 cùng LS 36.5 + KWA 150SE không những vượt qua được các đòi hỏi của CD này mà còn trình diễn nó như khai sinh ra CD đó lần nữa.

Ngay từ bài đầu của TAS 2009, bộ dàn đã mang lại một âm sắc đẹp tự nhiên, không thiên vị sáng hay tối. Từng tiếng bass uy lực, xuống sâu, gọn gàng, rắn rỏi, tươi tròn. Âm trung và cao đâu vào đấy… Khi nghe bằng loa mành lớn như MG 3.7, do các ‘củ loa băng’ trải dài từ dưới lên trên của từng bên loa, không gian âm nhạc trong phòng đầy ắp, không có chỗ nào ‘rỗng âm’. Dù là ngồi bệt xuống đất, ngồi trên ghế thấp, ghế cao hay đứng hẳn lên trong phòng nghe, người nghe vẫn nghe được những tiếng nhạc như nhau, khác xa với những cặp loa thùng và loa cột vốn không thể thể hiện như thế vì lệ thuộc vào vị trí của từng củ loa.

Ở nhiều giải pháp trước đây, CD Thanh Lam Acoustic luôn chứng tỏ là một album ‘già bass’ với âm bass thu thanh hơi quá tay. Tuy nhiên, với giải pháp loa mành MG 3.7 và Pre LS 36.5 + Pow KWA 150SE, Thanh Lam Acoustic nghe tốt với các bè đều toàn dải và gọn gàng cả. Điều đó không chứng tỏ Thanh Lam Acoustic ‘không già bass’ mà chứng tỏ khả năng thể hiện các bản thu một cách kiềm chế đầy tốt đẹp. Do bass của MG 3.7 quá hay với màng loa bass lên đến gần mét vuông/bên. TAS 2009Thanh Lam Acoustic đều là những CD ‘bài tập’ rất dễ cho loa mành MG 3.7. Tuy nhiên, cũng chỉ cần nghe những CD này, người nghe đã có thể thấy chất âm cởi mở nhưng thanh tao, sâu sắc – điều rất ít ai nghĩ là loa mành phẳng tuyệt đối lại có thể làm được thế.

Là một cặp loa hi-end đỉnh với công nghệ loa mành khác lạ, MG 3.7 đã thể hiện rất tuyệt các dòng nhạc từ pop, rock, country đến jazz, cổ điển với sức mạnh tối đa cho một phòng nghe gia đình… Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao khả năng tái hiện trung thực giọng người, tiếng nhạc cụ của MG 3.7, khiến cho các nhạc cụ cũng như giọng ca không thể bị lẫn với nhau. Nghe CD Kalinka – Red Star Red Army Chorus (Teldec CDA-16096), thấy cái hoành tráng của một dàn hợp xướng quân đội (Red Star Red Army Chorus là Dàn đồng ca Sao Đỏ của Hồng Quân Liên Xô). Cái trữ tình mang chất bộ đội khác với cái trữ tình chung chung. Tình cảm xuất phát từ ý chí sắt thép luôn mang trong mình sự trong sáng vượt trội. Đĩa có 18 bài hát nổi tiếng của Nga được soạn cho hợp xướng và là một CD có chất lượng thu thanh tuyệt hay dài 66’53” nhưng nghe rất… ‘mau hết’. Kalinka là bản số 3. Đây là một bài dân ca soạn cho hợp xướng - tiết mục biểu diễn thanh nhạc và sân khấu mẫu mực bậc nhất. Nghe với MG 3.7 rất rực rỡ.

Trong các CD nhạc cổ điển, chúng tôi dừng nghe khá lâu các violin concertos do Leonid Kogan, Jascha Heifest trình diễn các violin concertos nổi tiếng của Beethoven, Tchaikovsky, Brahms, Bach, Bruch… và đặc biệt là Ilya Kaler trình diễn Violin Concertos No1&2 của Shostakovich cùng dàn nhạc Polish National Radio Symphony Orchestra (Katowice) do nhạc trưởng Antoni Wit chỉ huy. Tiếng violin đầy ắp âm sắc đặc trưng (được Shostakovich khai thác triệt để trong 2 concerto cho viloin và dàn nhạc của mình) tha hồ được dịp khoe sắc trên MG 3.7. Những tiếng đàn đó mang các hình khối nổi cộm, gai góc khác nhau như cầm nắm, sờ mó được.

Suốt quá trình trải nghiệm MG 3.7, chúng tôi đã được dịp nghe thưởng thức rất nhiều đĩa than. Đáng kể như đĩa than của Peter Schenkman - Cello và Elyakim Taussig – Piano (CBC Radio Canada, 1971). Ở mặt một có bản Sonata No2 for Cello and Piano in F-Major Op.99 của Johannes Brahms. Ở mặt hai của đĩa than này có Toccata của Frescobaldi-Cassado và một số tiểu phẩm cổ điển khác. Tiếng cello của Schenkman rất sâu, đặc biệt ấn tượng, “nổi da gà”. Nhận xét chung về chất âm đĩa than với loa mành MG 3.7 là hoàn toàn no đủ, chi tiết và tinh tế.

Đĩa than Four For The Show of The Statlers Brothers ghi tốp ca (4 giọng) của anh em nhà Statlers rất nổi bật: Từng tiếng nhạc cụ, nhất là bộ gõ đến giọng ca của từng người từ trầm đến bổng đều có sức nặng diễn cảm rất riêng. Đây là đĩa than do PolyGram Records Inc. sản xuất năm 1986 ở Mỹ và có độ phân giải rất cao, cho âm thanh như thực bên ngoài. Nghe với loa mành MG 3.7 và dàn thiết bị khủng đi cùng, trong đó có cả kim đĩa hát mới thay, có lẽ là không còn gì để đòi hỏi thêm. Thế nhưng, quá trình trải nghiệm, chúng tôi cũng có người bạn nghe không thích đĩa than Four For The Show. Đó là ‘cái không thích’ mang đậm ‘cái tôi’. Họ cho rằng ca hát thì… không cần các màn biểu diễn thanh nhạc điêu luyện chủ yếu là để phô diễn kỹ thuật…


Box:
Magnepan duy trì đường lối chế tạo loa bằng thủ công cổ điển, không hay thay đổi model trừ phi có những cải tiến quan trọng. Ví dụ, đôi loa MG 3.6 chỉ giã từ sân khấu sau 12 năm tung hoành cho đến khi model MG 3.7 ra đời năm 2011.

Ưu điểm:

Âm trường sâu, rộng, động, choán đầy không gian phòng nghe

Âm thanh chi tiết, thanh tao, mạnh mẽ và sống động.

Nhược điểm:

Thể tích loa không lớn nhưng vẫn đòi hỏi không gian phòng nghe lớn.

 

Cung cấp thiết bị: Audio Choice.

11112[13]14