Preamp và Power Amp hàng đỉnh của ModWright
Cặp đôi đỉnh cao LS
36.5 + KWA 150SE của ModWright (Mỹ) đủ sức lay động các con tim mê nhạc và thuyết
phục nhiều cái đầu đang tìm kiếm giải pháp. Chúng được tuyên bố bảo hành tới 5
năm…
ModWright LS 36.5
Nhà
thiết kế Dan Wright là đã thành công khi làm một cuộc cách mạng biến công ty ModWright
(Modify + Wright) nhỏ bé của mình từ chỗ chuyên nâng cấp trang thiết bị hi-end
lên thành hãng sản xuất đồ hi-end cấp cao. Năm 2003 Pre đèn SWL preamplifier
9.0SE của ông ra mắt. Sau 4 năm, Dan Wright đưa ra pre LS 36.5 cao cấp hơn, vượt
xa chiếc SWL 9.0SE. Nói một cách đơn
giản thì pre đèn LS 36.5 là một pream “trong mơ” của nhiều
người yêu âm nhạc vì nó có tất cả những gì mà họ mong muốn.
Pream
đèn LS 36.5 được
thiết kế mạch tiên tiến balance vào/ra, cân bằng hoàn toàn; dùng bóng đèn quân
sự 6H30 cho âm thanh đẹp và mạnh; ổ cắm bóng Teflon; Transfo
tín hiệu Lundahl; Dùng vỏ nhôm máy bay dày cộp phay, gia công CNC hoàn hảo; Đầu
vào XLR (1) + RCA (4); Đầu ra pre-out XLR
(1) + RCA (2) và Tape Out cố định (1); Khởi động bóng đèn chậm giúp kéo dài tuổi thọ bóng; Điều khiển từ xa – Remote
nhôm - đầy đủ chức năng…
Dan
Wright đã tự thiết kế tụ điện để sử dụng trong LS 36.5. Ông Dan cho rằng chúng
tốt hơn đa số tụ đang bán trên thị trường. Tụ ModWright được ngâm
tẩm dầu, các loại điện môi có trị số lớn hơn –1,0 uf và dùng phim Teflon tinh
khiết, lá đồng dùng trong các tụ điện ModWright có giá trị nhỏ hơn đường dẫn
tín hiệu… Khi tăng đôi ngân sách đầu tư so với pre SWL 9.0SE, Dan Wright đã thực
sự đẩy sản phẩm mới LS 36.5 (5.500 USD, ~115.500.000 đồng) lên một tầm cao mới
và Pre LS 36.5 còn có thể “leo lên” cao hơn nữa nếu ta mua kèm cục cấp nguồn Power
Supply PS 36.5 thiết kế 100% đèn (trị
giá 4.000 USD, ~84.000.000 đồng).
Thông số kỹ thuật:
·
Thiết
kế mạch : Class A, không hồi tiếp “cathode bias ‘Mu’ gain/buffer stage”
·
Đèn
sử dụng: (2) 6H30 + (1) 5AR4
·
Trở
kháng đầu vào 50 Kohm
·
Trở
kháng đầu ra 110 Ohm
·
Dải
tần đáp ứng: 20Hz đến 100kHz ở
+/- 1dB
·
Tín
hiệu trên độ ồn S/N: 125dB
·
Kích
thước (Rộng x Cao x Sâu): 44,45 x 31,75 x 12,1 cm
·
Khối
lượng: 13,2 kg
·
Giá
tham khảo: 5.500 USD (~115.500.000 đồng), bảo hành: 5 năm.
ModWright KWA 150SE
Thị
trường khuếch đại hi-end có thể đang bị power ModWright KWA 150SE (giá tham khảo
~178.500.000 đồng, ~8.500 USD) thách thức vì các bộ khuếch đại ngang tầm ModWright
KWA 150SE đó đều có giá trên chục nghìn đô la Mỹ hoặc cao gấp vài lần nó nếu là
các power amp monoblock trong khi chính chiếc KWA 150SE này cũng có chế độ “hoá
thân” thành một monoblock.
Kỹ
sư Dan Wright yêu chất âm đèn nhưng ông cho là power bán dẫn thiết kế tinh tế,
“đạt mức nghệ thuật” sẽ
mang lại âm thanh rộng rãi, âm sắc chính xác và động năng tốt nhất. Power bán dẫn
ModWright KWA 150SE không cho cảm giác âm bass lười biếng ‘bì bì’ hoặc tiếng
treble ‘chói loà’… mà là tiếng bass sâu, nhanh, giai điệu du dương, tiếng ca phong phú và quyến
rũ trong kiềm chế…
Chiếc
power KWA 150SE được chế
tạo hoàn toàn tại Mỹ sử dụng thiết kế mạch 'Solid State Music Stage' nổi
tiếng của Alan Kimmel. Nó là một bộ khuếch đại bán dẫn nằm trong một khung vỏ nhôm
phay dày đẹp và nặng tới 38kg, thiết kế monoblock hai Tranfso nguồn và 8 tụ chất
lượng cao. Đầu ra cho mỗi kênh Dan Wright gắn đến 12 con sò lưỡng cực (bóng bán
dẫn) ThermalTrak nhưng KWA 150SE chỉ phát ra 150 Watt RMS
uy lực và ổn định ở 8 Ohm, hoặc 275 Watt ở 4 Ohm. Chế độ nối cầu - bridge mono - sẽ biến power
150SE stereo thành power mono. Tuy nhiên muốn chơi chế độ monoblock, ta cần mua thêm một cái KWA 150SE
nữa. Khi đó, sức mạnh mỗi ampli tăng từ 150 Watt đến 450 Watt ở 8 Ohm và 650 Watt
ở 4 Ohm. Chuyển đổi stereo sang mono dễ dàng nhờ công tắc ở sau lưng, ModWright
còn cẩn thận gắn thêm một cặp giắc để kết nối loa mono.
Bộ
khuếch đại như KWA 150SE xứng đáng với nhiều thiết bị đối tác. Bật nó lên, nhấn
biểu tượng MW ở giữa mặt trước, chờ 1 phút đèn nháy sáng
xanh là có thể bắt đầu nghe. Muốn nghe hay nhất thì nên để vị trí “high bias”,
khi đó power sẽ làm việc như ở chế độ class A. Nếu muốn tiết kiệm điện, âm diụ
hơn, có thể chuyển đổi xuống
bias thấp.
Những
đòi hỏi như treble, mid rộng mở, chi tiết và tự nhiên, bass êm - sâu - gọn -
nhanh không là vấn đề trong chiếc power tầm cỡ này. Tuy nhiên, điểm đáng ấn tượng
nhất ở ampli KWA 150SE là tính phù hợp của nó với mọi tần số và độ năng động, thoáng rộng, 3 chiều
của nó thật phi thường.
Thông số
kỹ thuật:
·
Khuếch
đại âm thanh nổi (stereo) bán dẫn
·
Công
suất: 150 Watt RMS ở 8 Ohm (stereo) THD 0,04%
·
275
Watt RMS ở
4 Ohm (stereo) THD 0,04%
·
450
Watt RMS ở 8
Ohm (nối mono) tại 0,04% THD
·
650
Watt RMS ở
4 Ohm (nối mono) tại 0,04% THD
·
Đầu
vào XLR và RCA
·
Gain: 26dB -
Tiếng ồn nền:
-100dB
·
Băng thông: 10 Hz - 100 kHz (0 dB, -1 dB)
·
Trở kháng đầu vào: Min 15K ở 50Hz; 23K ở 1Khz
·
Tổng điện dung: 220.000 UF
·
Công
suất tiêu thụ tối đa: 1.000 VA
·
Kích
thước (Rộng x Sâu x Cao): 43,18 x 43,18 x 22,23 cm
·
Màu:
đen hoặc bạc
·
Khối
lượng vận chuyển: 38kg
·
Giá:
8.500 USD(~178,5 triệu đồng)
·
Bảo
hành: 5 năm bảo hành giới hạn.
Phối ghép
Phối
ghép kỳ này nhằm vào các cặp loa có công suất lớn từng dùng trải nghiệm Rogue
Audio Monoblock M180 (TGVT tháng 7/2012) là Reference 3A Episode “mỹ miều”; Infinity
Studio Monitor 150 “lực lưỡng” và AR TSW 610 công suất 170W “đạo mạo”. Ở giải
pháp Infinity Studio Monitor 150, âm nhạc hoàn toàn thoát ý với mọi bản thu, với
nhạc cụ hay giọng ca và hơi khô khan đặc trưng dòng loa monitor.
Với
AR TSW 610, nhạc hết khô, quyến rũ và đường bệ với bass dày, xuống sâu và có uy;
trung đầy đủ, chi tiết, sáng sủa, thật tiếng; bè cao rất thanh. AR TSW 610 không
thể thay thế Infinity Studio Monitor 150 ở các bản thu lớn, nhiều nhạc cụ, giọng
ca như giao hưởng, hợp xướng. Cả Reference 3A Episode cũng không thể thay thế
Infinity Studio Monitor 150 khi thể hiện chính xác nguồn nhạc quy mô lớn nhưng nó
thể hiện những bản nhạc to lớn đó ở một chất lượng quyến rũ hơn. Với các
concerto thì loa Episode hay hơn cả, nhất là trong các piano concerto.
Dây
loa, tín hiệu Analysis Plus: Big Silver Oval và Cooper Oval-in (2 bộ) nối CD Player với Pre và Pre với Power); dây Oval One nối
phono pre pa1.2 của Music Hall vào Pre ModWright. Toàn bộ dây nguồn là Synergistic
Research Precision AC Basik. Dây dùng trong trải nghiệm đã đạt “mốc phấn đấu” nâng
cấp âm thanh mặc dù nếu đầu tư thêm thì chất âm sẽ vẫn được cải thiện (không tỷ
lệ thuận).
Thoạt
đầu, các đầu phát được dùng gồm có Turntable Pioneer XL-1550 (kim MM của
Pioneer, máy phono pre pa1.2 của Music Hall xuất tín hiệu ra pre LS 36.5); Cassette
Deck Bang Olufsen 9000; CD Player Denon DCD 3300. Sau, kiện toàn hơn, chúng tôi
còn dùng CD Player đèn PrimaLuna ProLogue Classic (TGVT tháng 3/2012), đối chứng
với loa Rogers LS 3/5a Monitor (www.pcworld.com.vn/T1229816); loa Reference 3A
Dulcet (www.pcworld.com.vn/T1230801). CD Player đèn của
PrimaLuna được nối thẳng vào pre LS 36.5 bằng dây tín hiệu Element Copper của Synergistics
Research. Các loa mới, nhất là Rogers LS 3/5a chỉ có 30 Watt đã khẳng định thế
mạnh ‘trị loa nhỏ’ của cặp pre + pow khủng này...
Sáo thần
Ngay
sau khi dóng bộ pre + pow của ModWright
với cặp Infinity, chúng tôi bèn lấy luôn Box 3 LP Die Zauberflote (The Magic Flute – Sáo thần – Berliner
Philharmoniker – Karl Bohm – Deutsche Grammophon) ra nghe. Opera chỉ dài hơn 2h
nhưng để nghe hết 6 mặt đĩa, cần có cả một buổi chiều Chủ nhật vệ sinh từng mặt
đĩa, vừa nghe, vừa tìm hiểu thêm các thông tin liên quan. Chúng tôi cũng dành
ra ít phút lúc chuyển mặt đĩa để ghi chép những dòng tâm đắc.
Nghe
Opera là vừa nghe nhạc, vừa ‘xem’ kịch (xem bằng tai rất rõ vì âm thanh định vị
rất tốt trên sân khấu). Ấn tượng nhất là những màn hát nói (recitative). Những
màn đối thoại của các nhân vật thật như họ đang đứng hát nói trước mặt. Phát âm
của ca sĩ opera dù là nói thì vẫn là hát, nghe hay hơn nhiều so với các kịch sĩ
chỉ biết có nói hoặc hát không hay. Chỉ cần giọng ca đầu tiên của Fritz Wunderlich
(vai Hoàng tử Tamino lạc vào vương quốc của Nữ hoàng Bóng đêm) cất lên là không
còn ý kiến nào về khả năng xử lý giọng người. Đây cũng là một giải pháp xử lý rốt
ráo mọi thuộc tính âm nhạc. Nghe cả một opera như ‘Sáo thần’ không hề thấy mệt.
Trong
Lịch sử Nghệ thuật Thanh nhạc phương Tây, tác giả Hồ Mộ La ghi: “Sáo thần là vở Opera cuối cùng, vĩ đại
nhất của Mozart… Kịch bản và bản thân câu chuyện “Sáo thần” không phải hay lắm nhưng vì âm nhạc của Mozart hay quá
nên người ta quên đi nhược điểm của kịch bản”. Chúng tôi luôn sùng bái Mozart vì
Mozart là một nhà phát minh tính từ góc độ công nghệ. Mozart cho rằng Opera là
loại hình truyền thông cho phép nhiều người cùng nói, hát mà người nghe vẫn nghe
được hết. Việc mã hoá thông tin dưới dạng hoà âm, phối khí tuyệt vời của Mozart
đã khiến điều không thể trước đó trở nên có thể.
Đàn nằm
Bộ dàn với loa
Reference 3A Episode
mà chúng tôi thử nghiệm chỉ có giá trị tương đương một cây đàn piano nằm tầm
trung nhưng nó lại có khả năng tái hiện một cây đàn nằm nguyên khổ lớn đang
chơi trước mặt, kể cả chơi piano concerto vì các pianist chỉ dùng đàn nằm full
size để thu thanh. Thoạt đầu, khi đặt nghe LP Ilana Vered chơi các piano
concerto của Tchaikovsky và Rachmaninov, chúng tôi lưỡng lự giữa việc chọn giới
thiệu Rachmaninov 2 hay Tchaicovsky 1.
Rachmaninov 2 được chọn là piano
concerto nổi tiếng nhất thế giới năm 1946 – năm đầu sau thế chiến thứ hai, loài
người bắt đầu hưởng thụ hoà bình và cái trữ tình sâu thẳm bên cạnh những kịch
tính, khải hoàn… của tác phẩm đáp ứng nhu cầu đó. Tchaikovsky 1 thì lại là một piano concerto mẫu mực, đại diện không
thể thay thế cho nền âm nhạc Nga vĩ đại. Cuối cùng, chúng tôi xin giới thiệu cả
hai. Gặp chúng ở đâu, dưới định dạng nào, người nghe cũng nên quan tâm.
Ilana
Vered chơi hay nhưng những dàn nhạc London Symphony Orchestra (nhạc trưởng
Kazimierz Kord – Tchaikovsky 1) và
New Philharmonic Orchestra (nhạc trưởng Andrew Davis – Rachmaninov 2) cũng chơi quá hay. Đây là lần chúng tôi nghe Ilana
Vered chơi hay nhất, như ở những hàng ghế đầu trong nhà hát. Tiếng dây trầm của
đàn piano khi nó gằn sẽ làm rung cả đàn và tiếng rung đó như nhìn thấy được ở
các bộ dàn tốt… Chương 2 của Rachmaninov
2 mới sâu lắng nhường nào…
Giấc mộng
Những
âm bồi căng mọng, những tiếng tremolo réo rắt (như trong bản Una Limosna Por El Amor de Dios – La Ultima
Cancion – Một lời cầu nguyện lòng thương của Trời, hay trong bản Sueno En La Floresta – Giấc mộng vườn hoa trong CD The Great Paraguayan Guitar Music Of Barrios
của John Williams – CDA-6201) thể hiện qua bộ
dàn với loa AR TSW 610 là những điều người nghe mơ ước. Những cái đẹp từ
tâm hồn, từ thiên nhiên… không thể chối cãi. Giải pháp pre + pow đỉnh của
ModWright này không thiếu thứ gì ngoài trầm, trung, bổng hoàn hảo. Nó giúp đỡ những
cặp loa lớn và nâng đỡ những cặp loa nhỏ hơn như JBL 4312A, Kenwood KL-5080… một
cách triệt để. Vấn đề với người nghe bây giờ chỉ còn ở nguồn tư liệu.
Khi
nghe Cassette Meditation – Traummelodien
mit Herbert von Karajan (Deutsche Grammophon, khoảng sau 1972), chúng tôi hoàn
toàn hài lòng với một chất âm analogue khác, “analogue dài” thay vì “analogue
tròn” như ở đĩa than. Cách lấy âm cassette dựa theo chiều dài của sợi băng và bằng
một đoạn rãnh vài mm trên đầu từ, khác xa so với cách lấy âm bằng một điểm trên
đầu kim trượt trên rãnh đĩa than. Không có bằng chứng nào thuyết phục rằng cách
lấy âm khác nhau sẽ cho chất âm khác nhau vì các nhà sản xuất đều nói họ tái tạo
100%... Nhưng, kết quả nghe đó cũng là không thể chối cãi. Các audiophile đều
nghe thấy thế.
Chúng
tôi đã tìm nghe thêm nhiều CD nhạc nhẹ (rock, pop, country, jazz). Dù nghe với loa gì, những đĩa dùng test
dàn ghi đủ loại nhạc thường có thêm chữ Audiophile trên bìa đều không gây khó
khăn cho bộ pre + pow đỉnh của ModWright. Các thuộc tính chung của các dòng nhạc
thịnh hành đều không khó đáp ứng vì đều là nhạc mới, kể cả dòng nhạc cổ điển. Nhưng,
những đĩa nhạc kiểu như “Khúc tự tình Hội
An – Dân ca Quảng Nam” do Vafaco phát hành năm 2003 mới là “đáng ngại” cho
các bộ dàn...
Những
bài hát dân ca Trung Trung Bộ trong CD này có kèm theo những tiếng đàn bầu và
nhiều nhạc cụ phi chuẩn khác chiếu theo tiêu chuẩn nhạc cụ Tây phương. Cộng với
chất lượng thu âm khó được như ở các hãng thu âm danh tiếng, nhiều khả năng bộ
dàn sẽ làm lộ hết các điểm yếu… Thế nhưng, bộ
dàn với loa Infinity đã thể hiện CD Dân
ca Quảng Nam như là tốp diễn viên đang diễn không một lỗi nào trước mặt. Cứ
nghĩ là với thành phần tham gia biểu diễn không lớn thì việc nghe CD đó trên một
dàn khủng sẽ phí, chúng tôi nghe lại CD trên một dàn thường: cái hay, cái đẹp
như là đi đâu mất, phải hết phần giới thiệu mới lấy lại được sức nghe và từ từ
nghe mới lại thấy hay.
Nâng cấp
LS
36.5 + KWA 150SE là giải pháp rộng mở. Chỉ cần cặp đôi này, người nghe có thể phối ghép với đầu phát và loa nghe bất
kỳ. Khi nghe dàn gồm CD Player PrimaLuna ProLogue Classic với LS 36.5 + KWA
150SE với các loa đã nghe ở trên, chất lượng âm thanh tăng do hai yếu tố mới gồm
đầu phát mới 24bit/196kHz chạy đèn cho chất âm đèn và dây tín hiệu khủng của
Synergistic Research. Âm nhạc trở nên tự nhiên, sắc xảo, sáng sủa, rộng rãi và
năng động hơn. Tiếng piano dạo trong bài hát mở đầu CD Men at 40, High Definition Audio Master Compatible Digital (đĩa
Trung Quốc) se lại như những con quay tròn, nặng, phần dưới quay là chóp nón đầu
đinh. Quay được bổ xuống sàn trong suốt, nảy lên (một lần) không có đổ vỡ nào…
Rất
thú vị là nghe với loa nhỏ. Đầu tiên, chúng tôi chuyển nghe từ loa JBL 4312A
100W 8Ohm sang loa Reference 3A Dulcet. Dulcet có công suất 120W RMS 8Ohm nhưng
nhỏ nhẹ hơn nhiều so với JBL 4312A (7kg thay vì 20kg). Cũng bản nhạc đầu CD Men
at 40, âm nhạc giờ thanh tao, mềm mại, uyển chuyển và sáng sủa hơn. Loa nhỏ, củ
loa mid/bass chỉ 10cm nhưng trầm đẹp, xuống sâu và đầy đặn, không thiếu. Ngạc
nhiên là nghe với Loa Rogers LS 3/5a Monitor: Khó nói là nó có thể thua Dulcet.
Bass của Rogers LS 3/5a Monitor không sâu bằng của Reference 3A Dulcet nhưng Rogers
lại có mid “người” hơn. Cả hai cặp loa nhỏ này đều có treble dịu, đẹp.
Ưu điểm:
Thiết
kế mạnh mẽ, chế tạo tinh vi,
Phối
ghép tốt với các thành phần mới, cũ,
Đáp
ứng mọi nhu cầu nghe, sở hữu một lần cho trọn đời.
Nhược điểm:
Tốn
điện,
Không
nên một mình khiêng power.